Khắc khoải mùa sim trổ hoa
Ngày đăng: 20/08/2024; 120
Truyện ngắn
NGUYỄN TRỌNG TÂN
 
            Xốc ba lô, băng qua một con dốc nữa chúng tôi mới gặp được người để hỏi thăm. Ủy ban xã Phú Minh sơ tán về lẫn với dân. Xã đội, nơi chúng tôi tìm đến nằm ở xóm bên kia đồi. Hai bên đường bạt ngàn cây sim, cây mua. Đúng mùa sim trổ hoa, gió từ dòng sông Lô trào lên khiến ngàn hoa rung rinh, tím ngắt. Không hiểu vì cái màu tím mê mải đầy ẩn ức của loại hoa đồng rừng này hay cảm giác nặng nề của nhiệm vụ mà lòng tôi trĩu xuống, nỗi buồn se sắt len lỏi.
           Mấy năm nay, tổ di vật liệt sĩ của chúng tôi thực hiện hàng trăm chuyến đi, bàn giao cho địa phương và gia đình người đã mất chút di vật ít ỏi do người đã khuất để lại. Có trường hợp còn đầy đủ tư trang, nhưng phần nhiều chỉ đôi dép, cái mũ hoặc cuốn nhật ký... Lần này là liệt sĩ Phan Huy Thản.
           Xóm Đồi đã ở trước mặt, Nhạn và tôi dừng chân ngồi nghỉ dưới tán một cây lụ già. Chưa kịp lau mồ hôi bỗng chúng tôi giật bắn, một ông lão hai chân dạng ra kéo sệt trên mặt đất, ghìm đà chạy chiếc xe đạp phượng hoàng cũ sơn màu lem nhem. Chiếc khăn màu cỏ úa vắt vai, ông ta nhìn chúng tôi vẻ dò xét, giọng khô khốc:
           - Các chị đi đâu mà ngồi ở đây? Đề nghị cho xem giấy tờ.
          Lật ngược lật xuôi hai tờ công lệnh, một lúc lâu ông lão khoát tay nói cụt lủn:
           - Mời các chị theo tôi.
          Vượt qua một con dốc nhỏ ngoằn ngoèo, ông lão dẫn chúng tôi tới căn nhà nép dưới lùm cây trám. Quẳng chiếc xe đạp vào chân cây rơm, ông lão bước vào bếp rồi hối hả quay ra. Thay đổi cách xưng hô, giọng ông chùng xuống, nhỏ nhẹ:
          - Đây là nhà tôi, hai đồng chí vào nghỉ cho đỡ mệt. Cũng tới bữa trưa rồi, bà nhà tôi đang thổi cơm, ù một lát là xong. Các đồng chí cứ tự nhiên, để tôi đi báo cáo xã.
Chúng tôi còn đang ngơ ngác chưa hiểu ra sao thì ông lão đã quay ngoắt chiếc xe đạp phóng vù ra cổng. Bác gái, chắc là vợ ông lão xách ấm nước chè tươi từ trong bếp ra, đon đả:
           - Nào hai cháu, vào nhà cho mát, đứng mãi ngoài ấy thế.
           Rót nước ra hai chiếc bát nông choèn, bác than vãn:
           - Đàn ông đàn ang đâu hết mà các cháu phải vất vả thế này.
           Tôi hỏi bác gái:
           - Bác ơi, bác trai khi nãy tên gì ạ. Khu tập thể ga Phú Minh cách đây có xa không ạ?
           Vừa quạt cho hai đứa chúng tôi, bác gái vừa bảo:
          - Ông lão nhà tôi đấy. Tên là Đức, trưởng xóm. Nháo nhào uống vội uống vàng bát nước lại đi, bảo nấu cơm mời hai cô bộ đội. Nào tôi đã hỏi được gì. Cái khu tập thể cháu hỏi, ngày trước thì còn nhưng hiện tại bị bom nó ném tan cả rồi, bây giờ công nhân ở xen với dân. Mà hai cháu về địa phương để tuyển quân phải không?
          Tôi và Nhạn nhìn nhau chưa biết trả lời bác Đức gái thế nào. May mà bác ấy hỏi cũng chỉ để cho có hỏi, vừa dứt câu đã chống gối đứng dậy:
           - Hai cháu ra giếng rửa mặt mũi chân tay cho mát rồi vào ăn cơm. Cơm cũng sôi rồi, nhà còn thức ăn, nấu loáng một lát là xong.
          Hai chúng tôi đành răm rắp làm theo bởi bác Đức đã cầm giấy công lệnh của chúng tôi lên xã chưa về. Tôi thưa:
- Chờ bác trai về cùng ăn chứ ạ?
          - Ông ấy ăn đám bên hàng xóm rồi. Tôi cũng định nhếu nháo cái gì cho xong bữa, nhưng may quá có hai cháu nên nổi lửa một tý. Cơm đồng rừng sẵn củi chả mấy mà chín.
          Đúng là nhanh thật. Hai đứa chúng tôi vừa rửa mặt vào nhà đã thấy mâm cơm dọn sẵn. Bác Đức gái bảo:
          - Ngồi xuống đi hai cháu, cứ tự nhiên nhá, ăn cho no vào. Đi tàu từ đêm qua chắc đói lắm rồi. Hai cháu nhớ ăn hết cho bác kẻo thừa cơm để nguội chiều khó ăn lắm.
          Nói là cùng ăn, nhưng bác Đức gái chỉ ngồi quạt cho chúng tôi, miệng không ngớt xuýt xoa như mẹ chăm con gái đi xa về. Bữa cơm đang dở bỗng ngoài sân một phụ nữ còn trẻ, dáng cao, hối hả bước vào. Tay chị cầm chiếc nón lá, gương mặt lúc đỏ, lúc tái dại. Ngồi phệt xuống thềm cửa, chị hức lên:
          - Bà ơi… Các chị ơi… Đau đớn thân em quá…
          Bác Đức gái lập cập bước ra, hai đứa chúng tôi cũng đặt bát cơm xuống mâm.
          - Có chuyện gì thế hở mẹ cu Sơn… Hay bà cụ bên nhà thế nào rồi?
          Ôm chầm lấy bác Đức gái, người phụ nữ nghẹn ngào:
         - Bà ơi, con đã linh cảm chuyện này từ dạo có tin đồn rồi mà. Mẹ con đang ốm nặng, nếu nghe tin này mẹ con chết mất bà ơi. Đau đớn quá.
          Tôi ngồi chết trân nhìn cái Nhạn. Lời rên rẩm của thiếu phụ hình như liên quan đến sự có mặt của chúng tôi. Qua vài câu giữa bác Đức gái với người phụ nữ chúng tôi biết đây là chị Oanh - vợ của liệt sĩ Thản. Bác Đức trai là chú ruột chồng chị Oanh, chắc đã báo tin chúng tôi về bàn giao di vật liệt sĩ. Chị Oanh chìa hai cánh tay run rẩy về phía chúng tôi:
          - Em xin hai chị đừng cho mẹ em biết tin anh Thản hy sinh vào lúc này. Mẹ em chết mất. Trời ơi khổ thân con thế này bà ơi…
          Chúng tôi mỗi đứa một bên dìu chị Oanh đứng dậy. Mẹ chồng chị Oanh đang ốm nặng. Anh Thản là con trai duy nhất. Những ngày này bà cụ chỉ có một niềm mong mỏi là được nhìn thấy mặt con trai trước khi nhắm mắt. Ít nhất là nhận được thư để biết tin con trai ngoài chiến trường vẫn khỏe mạnh. Công việc của chúng tôi không nặng nhọc, gian khổ nhưng luôn phải đối mặt với những tình huống khó xử, đau buồn và day dứt. Biết rõ tình cảnh chị Oanh, tự nhiên tôi cảm thấy mình như người có lỗi. Chúng tôi vừa vỗ về chị vừa lau những giọt nước mắt mình cũng đang lã chã. Hai đứa tôi còn quá trẻ, chưa có gia đình để thấu hết nỗi đau của người vợ mất chồng. Chúng tôi chỉ tưởng tượng theo sự hiểu biết của mình, chỉ cảm thông với nỗi đau ấy chứ không thể biết nó vò xé tâm can đến mức nào. Cùng nỗi đau chồng hy sinh, chị Oanh còn lo sợ cho sức khỏe của mẹ chồng. Làm sao để cụ không phải đau đớn trước lúc nhắm mắt xuôi tay. Không ai được phép làm cho cụ phải gánh thêm nỗi đau như thế. Nếu số trời đã định, chị cầu mong mẹ được ra đi trong thanh thản. Mẹ chồng chị đem theo hy vọng con trai sẽ trở về và có cuộc sống hạnh phúc bên vợ con.
         Bác Đức cùng hai cán bộ xã Phú Minh đến giữa lúc chúng tôi chưa biết xử lý câu chuyện bất ngờ này như thế nào. Nghe chúng tôi trình bày nhiệm vụ của mình, ông xã đội trưởng giới thiệu về gia đình chị Oanh, về mối quan hệ giữa chị và gia đình bác Đức. Không còn phải úp mở giấu giếm gì nữa, chúng tôi bàn giao di vật của liệt sĩ Thản ngay tại nhà bác Đức trước sự chứng kiến của cán bộ xã và gia đình.
          Vừa bàn giao xong, ông xã đội trưởng kéo Nhạn và tôi ra sân, nói:
          - Việc báo tử và làm lễ truy điệu liệt sĩ Thản xã chúng tôi sẽ tiến hành vào lúc tình hình địa phương thuận lợi. Mọi thông tin về liệt sĩ Thản lúc này phải giữ kín bởi bệnh tình của mẹ chồng đồng chí Oanh đang rất nguy kịch, mong hai đồng chí thông cảm.
          Quay vào nhà, tôi thưa:
          - Chúng em xin chia buồn cùng chị Oanh. Anh Thản đã chiến đấu và anh dũng ngã xuống vì Tổ quốc. Mất mát này là nỗi đau chung của gia đình, địa phương ta và quân đội. Cầu mong mẹ anh Thản mau qua khỏi - Tôi quay sang ông xã đội trưởng - Nhiệm vụ của chúng tôi đã xong, xin xã đóng dấu công lệnh, tối nay chúng tôi theo tàu ngược Tuyên Quang.
          Nghe vậy, bác Đức kéo hai cán bộ xã Phú Minh ra sân nói gì đó, quay vào nhà, ông xã đội trưởng đến bên hai đứa chúng tôi, ngần ngừ một lúc, bảo:
           - Thưa hai đồng chí, chả là địa phương và gia đình muốn được mời các đồng chí nghỉ lại địa phương đêm nay.
          Tôi nhìn Nhạn. Ông xã đội trưởng liền nói:
          - Sự thể là thế này hai đồng chí ạ. Ngoài trường hợp chồng chị Oanh, xã chúng tôi còn hai liệt sĩ nữa chưa tiện báo tử và làm lễ truy điệu vào thời gian này. Địa phương đang chuẩn bị đợt giao quân mới, lại cận kề ngày Quốc khánh, tin về ba liệt sĩ xã vẫn giữ kín, nhưng tin đồn đã rộ trong dân… điều này rất không tốt cho khí thế ngày nhập ngũ, chị Oanh hiện là Bí thư Chi bộ ga Phú Minh… biết nói thế nào với hai đồng chí nhỉ.
          Thấy vẻ đắn đo của ông xã đội trưởng, tôi động viên:
          - Xin bác cứ nói hết, chúng tôi quen với những hoàn cảnh như thế này rồi.
          - Vâng, thật lòng tâm sự với hai đồng chí, gia đình người thân của liệt sĩ Thản lúc này phải nén lại nỗi đau. Với chị Oanh, đêm nay sẽ là một đêm vô cùng đau đớn, nặng nề. Những ngày tới chị Oanh phải giữ được thái độ bình tĩnh trước người dân, trước cán bộ công nhân ga Phú Minh. Họ nhìn vào chị và tin vào cách hành xử của chị, bởi chị Oanh là cán bộ có uy tín ở địa phương.
          Tôi chảy nước mắt, Nhạn cũng sụt sịt. Tôi nói:
          - Hai chúng tôi rất thông cảm với địa phương vào lúc này, nhưng như thế thì khổ chị Oanh quá.
          Ông xã đội trưởng nói như đã định sẵn:
          - Vì thế, lãnh đạo địa phương rất mong hai đồng chí đêm nay ở lại. Chị Oanh cần có người bên cạnh. Bạn bè, các cháu gái trong gia đình, họ tộc có thể động viên an ủi chị Oanh, nhưng như thế chuyện lộ ra. Lời đề nghị của chúng tôi có thể là trái khoáy, kỳ quặc, nhưng quả thật chúng tôi nhờ cậy hai đồng chí ở lại làm bạn với chị Oanh trong thời khắc yếu lòng này.
          Đúng là kỳ lạ và bất ngờ. Bao năm đối mặt với nỗi đau, trớ trêu và khó xử nhưng hai chúng tôi chưa gặp tình huống thế này bao giờ. Thần người một lúc tôi nháy Nhạn ra sân. Ánh mắt khắc khổ, cầu xin của cán bộ xã, của vợ chồng bác Đức dõi theo chúng tôi. Nhạn còn chưa hết xúc động, bảo:
          - Thương chị Oanh quá. Biết làm sao bây giờ. Mà đây tớ nghĩ cũng là một việc nghĩa với đồng đội…
          Hai đứa chúng tôi nhận lời ở lại với chị Oanh đêm ấy.
 
***
     
 Căn nhà chị Oanh nằm trong xóm Ga. Mẹ chồng ở bên nhà chị gái anh Thản cách đó nửa cây số. Trước cụ sống cùng chị Oanh, nhưng máy bay Mỹ đánh phá ga Phú Minh ngày càng ác liệt, chị Oanh đưa cụ và con trai sơ tán về bên ấy. Hằng ngày chị chạy đi chạy lại.
          Thương chị Oanh, chúng tôi nhận lời ở lại. Tuy chưa có kinh nghiệm gì nhưng hai đứa chúng tôi đã chuẩn bị tâm thế động viên chị. Một chút lo lắng, liệu chúng tôi có an ủi được chị Oanh không, nhưng hóa ra chẳng phải cố gắng gì nhiều. Chị Oanh tỏ ra khá bình tĩnh. Chị nén nỗi đau, chủ động quan tâm đến chúng tôi như người chị gái.
           Ba chị em rì rầm trò chuyện rất khuya. Chị kể về mối tình của mình với anh Thản. Một câu chuyện tình thật đẹp, thật hào sảng của lớp thanh niên thời chống Mỹ khiến hai đứa chúng tôi cũng cảm thấy lâng lâng hạnh phúc.
 
***
 
          Chị Oanh ở xóm Bãi, xã Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Dòng sông Lô là ranh giới giữa quê chị với Phú Minh bên này thuộc đất Phú Thọ. Tam Sơn là vùng đất cổ, nổi tiếng với tháp Bình Sơn gần ngàn năm tuổi. Quê chị không có đường sắt chạy qua, nhưng không biết từ bao giờ nhà ga, con tàu và những chuyến ngược - xuôi bờ bên này đã gắn bó thân thiết với người xóm Bãi quê chị. Ngày thơ bé, những chiều ngồi trên lưng trâu, những đêm lang thang trên triền cát, mỗi khi đoàn tàu như con rết khổng lồ chạy băng băng sáng rực trong đêm chị thấy thật hấp dẫn, bí hiểm. Xóm Bãi không nhà nào có đồng hồ, giờ tàu chạy, tiếng còi tàu ngân vang trở thành khoảnh khắc thời gian giữ nhịp cho cuộc sống. Giờ đi ngủ, giờ ăn cơm, giờ trẻ con tan học rồi cữ ra đồng, tan chợ… đều lấy tiếng còi tàu ga Phú Minh làm chuẩn. Và cũng từ cái ga nhỏ ấy mở ra cánh cửa cho người quê chị đi xa về gần. Biết bao sự kiện lớn trong đời của cư dân hai bên triền sông Lô được nhà ga và con tàu chứng kiến. Nón trắng sang đò làm dâu, tiễn người ra trận, người đi học… đều lấy cái ga nhỏ xóm Đồi thân thương ấy làm điểm hẹn. Với chị Oanh, tình yêu đầu đời cũng bắt đầu từ nhà ga này. Chị kể:       
         - Bom Mỹ đánh phá liên miên vào khu vực nhà ga, đường sắt, cư dân sống quanh đấy phải sơ tán, thay vào đó là những ụ pháo 37 ly, những trận địa phòng không của dân quân tự vệ.
          Tôi hỏi chen ngang.
          - Và chị gặp anh Thản ngày ấy?        
          - Vâng, xóm Bãi mình cử một tiểu đội qua sông sang bảo vệ ga Phú Minh. Anh Thản là Tiểu đội trưởng dân quân xóm Đồi.
          - Giây phút ban đầu anh chị gặp nhau như thế nào, chắc đẹp lắm chị nhỉ.
          - Thì cũng như bao cặp trai gái khác thôi.
          Hai đứa chúng tôi thay nhau hỏi, kéo chị Oanh trở về với câu chuyện tình thật đẹp ngày nào để chị vợi bớt nỗi đau. Chị kể: “Bất ngờ mình biết tình cảm của anh Thản vào một buổi tối họp phân công trực chiến. Anh lén nhét vào tay mình mẩu giấy, trong đó vẽ một cánh hoa sim màu tím rất đẹp, kèm dòng chữ giản dị: “Tặng Hoàng Oanh. Tôi Lê Thản”. Tim đập rộn ràng, lần đầu tiên trong đời có người con trai để ý đến mình. Nét vẽ bay bướm và con chữ rất đẹp. Tình cảm của bọn mình cứ dần lớn lên và lặng thầm như thế. Chưa hẳn là yêu, nhưng quý mến thân thương. Nửa năm sau mình mới chính thức nhận lời anh Thản. Đó cũng vào một ngày thật đặc biệt”.
          - Thế nào, chị kể đi. - Chúng tôi giục chị Oanh.
          - Hôm ấy, mấy chục lượt máy bay địch thay nhau dội bom xuống ga Phú Minh và cầu Việt Trì. Một quả bom rơi trúng trận địa pháo 37 ly. Ba người chết, gần chục người bị thương, ụ chiến đấu xóm Bãi cách đó vài chục mét bị sức ép, đất phủ kín. Mình ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy đang nằm trong lán cấp cứu. Bóng người trùm lên khoảnh sáng trước mắt. Lơ mơ một lúc mới nhận ra anh Thản. Anh vô cùng lo lắng, nắm chặt tay mình, đôi mắt ngấn lệ. Sau này cái Điệp - đứa bạn thân nhất trong tiểu đội bảo: “Mày không biết chứ, lúc bới đất tìm được mày, anh Thản bế chạy hấp hả về đội cấp cứu. Miệng cứ hức lên rằng yêu mày. Yêu mà chưa dám nói…”.
          - Hai anh chị về với nhau năm nào ạ?
          - Mình sang đò làm dâu xóm Đồi sau Tết năm 1967.               
          - Lúc ấy anh Thản đã nhập ngũ chưa chị?
          - Chưa. Ở với nhau được một năm thì anh đi. Sau huấn luyện tân binh, anh về thăm nhà một tuần rồi vào Trường Sơn.
         … Đó là những tháng ngày hạnh phúc đáng nhớ nhất của vợ chồng chị Oanh. Trong câu chuyện đẫm nước mắt, thỉnh thoảng chị lại nhắc đến “cái đêm ấy”. Cái đêm cuối cùng anh ở bên chị. Trời oi bức, anh trằn trọc khó ngủ. Cu Sơn đã ngon giấc. Cái dáng nằm mang đặc sệt vẻ mạnh mẽ xen chút ngang tàng của bố. Anh khẽ khàng giúp con nằm ngay ngắn lại và đẩy dịch nó vào phía trong rồi lần tìm tay chị kéo chị vào lòng. Chị ngợp trong hơi thở nồng nàn mạnh mẽ của anh. Đến lúc bàn tay anh ôm ghì tấm lưng trần run rẩy của chị, ấp mặt vào miền ngực nhễ nhại của chị, chị mới cảm thấy hết nỗi lo sợ của cuộc chia tay ngày mai. Nước mắt lặng lẽ chảy, chị không dám khóc thành tiếng, sợ anh buồn... Khi anh chìm vào giấc ngủ, chị ngồi dậy lặng lẽ quạt cho anh tới sáng. Ngày mai chồng chị dấn thân vào nơi hòn tên mũi đạn. Chị ngắm anh, khắc ghi gương mặt thương yêu vào lòng. Cầu trời khấn Phật cho anh được bình an…
Hai đứa chúng tôi thiếp đi lúc nào không biết. Gần sáng, tiếng gà rừng như mơ như thật khiến tôi bừng tỉnh. Nhìn ra ngoài, trời vẫn còn tối. Tôi quờ tay về phía chị Oanh nằm, trống trơn, lạnh tanh. Hốt hoảng vùng dậy tôi lay gọi Nhạn:
          - Dậy mau. Chị Oanh đi đâu rồi mày ơi.
          Căn nhà chị Oanh không quá rộng mà lúc này trở nên trống hoác. Cách khoảng sân trước là cái bếp nhỏ, hai đứa chúng tôi vội mở cửa. Ánh lửa le lói hắt ra qua khe liếp. Chúng tôi vội bước tới, nhưng rồi cũng vội dừng lại. Chị Oanh ngồi hóa đá. Ngọn lửa bập bùng hắt bóng chị lừng lững trên vách. Bên cạnh chị là chiếc ba lô của anh Thản. Giây phút này chị đang trò chuyện cùng anh, giao hòa cùng anh. Tấm lưng son trẻ của người phụ nữ đẹp rung lên tức tưởi.
 
***
 
           Gần chục năm sau chiến tranh tôi mới trở lại xóm Đồi vào đúng mùa sim trổ hoa tím ngắt rung rinh trong nắng sớm. Xóm Đồi đã thay đổi nhiều. Ga Phú Minh xây lại khang trang. Con dốc dẫn vào nhà chị Oanh rộng rãi, dễ đi hơn. Ngôi nhà hai tầng đứng trên nền nhà cấp bốn cũ. Cái giếng khơi ngày nào vẫn còn như một kỷ niệm đẹp. Chiếc cần kéo nước bằng thân cây tre già bổng cao, chúi xuống. Bóng một phụ nữ trung tuổi đang húi húi bên giếng. Tôi cất tiếng gọi:
          - Chị Oanh.
         Giật mình. Một giây lặng đi. Gàu nước nửa chừng buông rơi, chiếc cần tre vụt chúi. Tiếng va của chiếc gàu cao su cùng sợi dây xích vào thành giếng nghe chát chúa. Chị Oanh quay lại, hai khóe mắt hiện ra những vết rạn chân chim. Nét buồn, khắc khổ vẫn in đậm trên gương mặt đẹp. Chân tóc trước trán bắt đầu ánh bạc. Chị lập bập:
          - Trời ơi... dì Doãn. Mười mấy năm trời biền biệt.
         Chị em tôi nhào tới ôm chầm lấy nhau. Chị khóc, tôi cũng khóc… Giọng tôi bẹt đi:
          - Chị già đi nhanh quá.
          Những ngày ở lại xóm Đồi thăm chị Oanh, tôi được biết những gì sau cái đêm chúng tôi ở lại cùng chị. Mẹ chồng chị mất sau đó ít hôm. Cụ ra đi trong sự nhung nhớ con trai nhưng thanh thản. Nghị lực của chị đã giúp cụ vợi bớt đau đớn. Chị Oanh ở vậy thờ chồng, nuôi con. Có bao người đàn ông muốn gá nghĩa với chị nhưng chị một mực từ chối. Cu Sơn - đứa con trai duy nhất của chị với anh Thản đã phương trưởng. Cháu đang đi du học ở nước ngoài. Trong câu chuyện của hai chị em tôi, dù chị Oanh không nói ra nhưng tôi linh cảm như chị vẫn đang chờ đợi một điều gì. Kỷ niệm về người chồng thân yêu vẫn được chị nhắc đến hằng ngày. Dường như anh vẫn sống bên chị, anh chỉ vừa đi đâu đó thôi. Hơi thở và bóng dáng của anh vẫn đầy ắp, ấm nóng trong căn nhà và cuộc đời chị.
        Tàu chầm chậm chuyển bánh về xuôi. Chị Oanh đứng trên sân ga Phú Minh,  giơ cao tay, vẫy mãi. Ánh chiều đổ xuống hắt bóng mọi vật vươn dài. Tì má vào cửa kính mắt tôi cay cay nhìn chị như thôi miên. Thoáng sững sờ, bóng chị Oanh như một tượng đài vọng phu lồng lộng trên nền hoa sim tím ngắt.
N.T.T
Lọc tin tức - bài viết
Chuyên mục:
Sự kiện:
Nội dung:
Danh sách tin tức - bài viết

Hệ thống văn bản

Thư viện Video

Khai mạc Triển lãm Gốm và Sách với chủ đề “Lửa ấm làng quê”
Ngày thơ Việt Nam lần thứ 22 tại Vĩnh Phúc - Bản hòa âm đất nước
Truyện ngắn: Trên chuyến tàu đêm - Tác giả: Minh Ánh
Gặp gỡ tác giả bài xẩm: Vĩnh Phúc tang tình
Bến trăng - Nhạc: Minh Đoàn, thơ: Hải Thanh, trình bày: Anh Tuấn
Truyện ngắn: Người vắng mặt của nhà văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương
Truyện ngắn: Khoảng trời riêng; Đồng tiền rách của nhà văn Xuân Mai
Khát vọng phát triển: Vĩnh Phúc - khát vọng phồn vinh
Vĩnh Phúc khát vọng phồn vinh
Nét xưa Vĩnh Phúc
Văn Học Nghệ Thuật - Nơi Lưu Giữ Những Đời Văn
Báo cáo Tổng kết Hội Văn Học Nghệ Thuật Vĩnh Phúc 2018- đầu 2019
Triển lãm Mỹ thuật Trẻ Vĩnh Phúc tại Hội Văn Học Nghệ Thuật Vĩnh Phúc