(Trích tiểu thuyết)
HÀ ĐÌNH CẨN
Phần Một
Ba giờ sáng ngày 8/12/1950, Liên đội du kích hai thôn Xuân Trạch và Cọ lặng lẽ xuất quân làm trận địa chuẩn bị đánh phục kích cuộc hành quân “Chim dẽ giun” của Đờ Lát Đờ Tátxinhi dự tính sẽ càn lên vùng bán sơn địa Lập Thạch.
Khi những du kích vác súng đi qua cổng, ta nói với mẹ, con cũng đi đây.
Bấy giờ anh trai ta đang nói chuyện với vợ ở cửa, mắt nhìn ta không hề có thiện cảm, bảo, mày định làm vướng chân tao à?
Ta bảo, cô Thưởng nhận em làm liên lạc.
Anh ta gắt, ở nhà, không đi đâu cả. Mày nghe cô Thưởng hay nghe anh?
Tuy nhiên anh vừa bước chân ra ngõ, ta đã vội bám theo phía sau lưng.
Mẹ ta gọi với, quay lại mặc áo ấm rồi hãy đi.
Ta quay lại, nhận từ tay mẹ chiếc áo trấn thủ. Cái áo này không biết ai cho bố từ mấy năm trước nhưng bố chưa một lần mặc thì đã mất. Chiếc áo vẫn treo ở mắc áo, bụi phủ lên thành những vết vàng lợt trên mặt vải màu xanh lá cây. Chiếc trấn thủ vừa vặn ôm khít lưng ta.
Ra khỏi thôn, ta bám sau lưng cô Thưởng. Chỉ có ta là biết, tối hôm qua cô Thưởng gội đầu bằng lá gì, sả hay chanh. Rõ là cô gội lá chanh, cô bước trước, hương lá chanh tỏa trong sương sáng, rất dịu. Không ngoảnh lại, nhưng cô biết ta bám sau.
Cô hỏi trống không, có đem đồ ăn sáng theo không?
Ta nói lễ phép, thưa cô không.
Ta không nói cho cô biết là nhà hết gạo, mà phiên chợ lại chưa đến, mấy bữa nay toàn ăn sắn với khoai lang luộc. Cô không nói gì, dừng chân lục cái túi vải đeo ở vai, lấy ra cái gói được gói bằng lá chuối tươi, đưa cho ta, nói như ra lệnh, cầm lấy, sáng thì ăn cho khỏi đói. Ta không dám chối, cầm cái gói, đưa lên mũi ngửi. Thơm quá, mùi xôi nếp làm ta ứa nước miếng. Cho đến khi cô Thưởng chạy lên phía trước để hội ý với đội phó Hợi, ta tranh thủ véo một miếng xôi cho lên miệng. Chưa khi nào ta thấy xôi ngon như thế.
Trận địa phục kích là khu đất trống, xung quanh là đường rào hoa cứt lợn nở trắng bốc mùi ngai ngái. Giống hoa này được cái, đã mọc ở đâu thì ở đó ít muỗi mòng. Cho nên cứ lăn vào gần bãi hoa cứt lợn nằm là yên, không bị ong châm, kiến đốt, muỗi mòng sạch bách.
Trận địa đào ở chỗ đất pha sỏi, lưỡi cuốc tóe lửa. Mỗi người đào một hố cá nhân, cách nhau chừng mười mét. Rồi từ hố cá nhân lại đào giao thông hào nối lại với nhau. Anh Hóa, cán bộ quân sự của Trung đoàn 141 được biệt phái đi xây dựng các đội du kích trực tiếp hướng dẫn cho anh em đào trận địa, đâu là tổ tiền tiêu, đâu là tổ xung kích, đâu là tổ dự bị, rồi đến vị trí chỉ huy của Liên đội trưởng, Liên đội phó. Từng chỗ nằm phục kích, anh Hóa đều lấy đầu một chiếc que vạch thành hình cái hố công sự để anh em tự đào, rồi mới đi kiểm tra từng người. Anh em hì hục đào đến gần sáng thì xong, để nguyên quần áo, nằm lăn trên bãi cỏ mà ngủ, mặc gió rét thổi ù ù qua người.
Có một người, ông Ngăn, đào xong trước tất cả, nhưng đến sáng không thấy ông đâu. Ông Hợi cho người đi tìm, gặp ông Ngăn đang hì hục cày ruộng.
Người đi tìm hỏi, ông bỏ đội du kích à?
Ông Ngăn bảo, ông nhìn lại mặt tôi xem có giống mặt thằng đảo ngũ không?
Ông du kích nói, chỉ biết sáng ra không thấy ông ở vị trí chiến đấu.
Ông Ngăn bảo, tôi đào công sự xong, vội về cày nốt sào ruộng để mẹ nó trồng ngô cho kịp thời vụ. Không tranh thủ làm thì mùa tới, lấy gì đổ vào mồm.
Thế là cười trừ, không ai nêu kỷ luật ông Ngăn.
Anh Hóa cùng cô Thưởng là Liên đội trưởng đi kiểm tra từng vị trí chiến đấu của mọi người. Đến chỗ công sự phục kích của một anh du kích cao lòng khòng, thấy cái vật gì đó bó trong mo cau, anh Hóa hỏi, cái gì đây?
Chàng cao lòng khòng bảo, dạ thưa, bó mũi tên.
Mũi tên gì?
Nỏ. Tôi quen bắn nỏ. Có cái nỏ còn để ngoài kia, khi cần thì bắn cũng chẳng kém gì súng hỏa mai.
Anh Hóa không nói gì, quay đi.
Đến chỗ ông Ngữ, Liên đội phó, thấy ông Ngữ đứng trong công sự chỉ thò lên cái chỏm tóc muối tiêu, anh Hóa hỏi, ông đứng sâu lút đầu thế, làm sao quan sát được anh em và khi cần bắn thì bắn thế nào, chĩa súng lên trời bắn chim à?
Ông Ngữ lúng túng giải thích.
Anh Hóa bảo, thôi, anh lấy đất lấp bớt công sự, đến khi nào anh đứng lên, thì miệng công sự phải dưới tầm ngực mới được.
Đến công sự của ông Hợi, anh Hóa bảo, anh xuống công sự, cầm khẩu K44 rồi làm theo lệnh tôi. Chuẩn bị xong chưa?
Ông Hợi bảo, xong rồi.
Anh Hóa xem đồng hồ nói, khi nào tôi ra lệnh xung phong, ông nhảy khỏi công sự để truy kích địch.
Ông Hợi bảo, sẵn sàng.
Anh Hóa hô, xuất kích!
Ông Hợi đứng trong lòng công sự chật hẹp, lúng túng như gà mắc tóc, lại bị khẩu K44 dài lõng thõng vướng víu, nên ì ạch một lúc mới lao lên bờ mặt đất.
Anh Hóa bảo, tôi xem đồng hồ, thấy hơn hai mươi lăm giây ông mới lên được miệng công sự. Thế thì chậm quá, thằng địch nó chạy mẹ đi rồi.
Ông Hợi chống chế, vì khẩu K44 dài như cái sào, vướng víu.
Anh Hóa bảo, đánh nhau không có súng thì đánh nhau tay không à? Ông ì ạch một lúc mới lên khỏi công sự, biết vì sao không? Vì công sự của ông không đào cái nấc đặt chân. Phải có cái nấc đó, như nấc thang đặt bàn chân, vọt lên mới nhanh.
Việc nhà binh tỉ mẩn từng li từng tí, hay phết.
Ta là liên lạc của Liên đội trưởng, cô Thưởng, nên khi đào công sự ta đào cho cô Thưởng trước rồi mới đến ta. May mà chỗ đất ta đào lại không có đá ong, xốp, xẻng sắn nhát nào cũng đầy tận óc. Ta khỏe lại được bồi dưỡng cả một nắm xôi nên đào hai công sự nhẹ như lông hồng.
Cô Thưởng khen ta, em giỏi lắm.
Cô nháy xuống để đứng quan sát ra xung quanh xem tầm nhìn có vướng gì không. Trong cùng một công sự, cô đứng sát, áp người vào lưng cô, thấy mùi cơ thể cô tỏa mùi hương chanh thoang thoảng và ấm.
Anh Hóa đi kiểm tra công sự của từng người, quay lại nói với cô Thưởng, ta phải có trận địa dự phòng, chứ không chỉ một trận địa. Trận địa dự phòng đào lùi vào phía trong, ở đó có cây che khuất, tiện cho giữ bí mật.
Cô Thưởng đứng tần ngần một lúc, rồi nói, cần gì trận địa dự phòng hả anh. Phía trước có vai đồi, cần thì tiến lên, dựa vào địa hình, đánh phục kích cũng được. Phía sau cũng có lũng của hai quả đồi, cần lùi về đó, cũng thành trận địa. Ta cứ coi trận địa này là cơ bản, còn tiến - lui là tùy vào diễn biến trận đánh.
Xem ra ý cô Thưởng cũng có lý, vì thế, kế hoạch đào trận địa dự phòng dừng lại. Cả Liên đội được nghỉ. Cô Thưởng đã chuẩn bị việc hậu cần cho Liên đội. Bốn cô trong tổ nuôi quân gánh ra trận địa hẳn một gánh cơm nắm, muối vừng và hai thùng nước uống. Anh em vừa ăn, vừa nói chuyện như pháo nổ.
Phải nói người làng Xuân Trạch, làng Cọ rõ tài, chưa ai biết ông tướng giặc Đờ Lát Đơ Tátxinhi mặt ngang mũi dọc thế nào, nhưng tụ năm, tụ bảy ngồi đâu cũng kể về ông đại tướng Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cứ vanh vách như chuyện trong xó nhà nhà mình. Chuyện từ hồi lão sang chỉ huy quân Pháp ở Việt Nam, khoái nhất là món thịt bò bít tết, gà mái mơ xé phay, khôn không, rồi ăn rau, quả su su đem về từ khu nghỉ mát Tam Đảo, đến việc lão thức đêm thức hôm thế nào. Lão ta ít ngủ nhá, đêm có khi chỉ nhắm mắt vài ba giờ, còn lại là ngồi cà phê sữa thức trắng bên bàn, mắt cứ xanh như mắt mèo. Lão ta có cô hầu là gái Pháp, môi đỏ như son, tóc trắng như cước. Dăm đêm sang Việt Nam thức như thế, lão bày ra cái kế hoạch xây mấy nghìn boong ke bằng xi-măng cốt thép, tường dày cả mét, cái nào cũng to như nhà năm gian, nhốt lính vào đó, thò đầu súng ra lỗ châu mai, bảo phòng ngự để giữ đồng bằng. Quái gở cho cái ông tướng bốn sao, cứ như người ta muốn giữ đất, giữ dân thì phải tung quân ra mà giữ, đằng này, nhốt lính vào lô cốt thì giữ thế nào? Việt Minh phởn phơ bên ngoài, lô cốt ì ở đó, đánh lúc nào chả được. Cho nên chủ lực ta, đánh xong trận Biên giới, bí mật quay đầu, luồn xuống đồng bằng, đánh vài trận dọc đường, xua lính lọt vào lô cốt, tương cho mấy quả bộc phá, lính chết cháy trong hầm khét như thui bò cả con. Đúng là ăn nhiều đường sữa quá lão ta cũng lú.
Bị đánh đau, Đờ Lát đã mất ngủ càng thêm mất ngủ. Con đầm tóc trắng môi đỏ bảo, ông anh giữ vận mệnh quốc gia mà mất ngủ thế này thì còn sức đâu mà chỉ huy ba quân. Để em chữa mất ngủ cho. Các ông có biết viên thuốc chữa mất ngủ của con đầm trẻ thế nào không, to và nặng đến sáu mươi tư cân đấy. Cười khơ khớ.
Lại bàn tiếp, Đờ Lát được chữa mất ngủ, tỉnh lại, nghĩ ngay ra muốn giữ đồng bằng, phải chọn kế hiểm Ám độ Trần Thương, kế thứ tám trong Tam thập lục kế của Gia Cát Lượng. Kế này là chọn một con đường, gây náo loạn ở đó bằng các trận đánh, hút đối phương chú ý vào, rồi bất ngờ mở cuộc tấn công ở con đường khác để giành bí mật bất ngờ. Láu không.
Nhưng tướng Giáp của ta đúng là tinh anh mọi nhẽ, anh hùng cái thế, khi nhìn Đờ Lát xuất quân đánh lên sườn Đông Bắc Hải Dương thì nghĩ ngay hắn giở trò giả giả, thật thật để lừa ta. Cách lừa này còn trẻ con lắm chú ạ, ta lạ gì ba mươi sáu kế của Gia Cát Lượng, nên mặc Đờ Lát ra vẻ chú ý vào phía Đông Bắc, thì ta đưa chủ lực đánh vào sườn Tây Nam đồng bằng, là Nho Quan Ninh Bình thế là lão trúng mưu, bị ta nện cho nhừ tử.
Các bố cờ ngoài bài trong, bốc lên nói đánh Đờ Lát dễ như húp cháo. Đâu dễ thế, quân ta có lúc mặt cũng xanh như đít ếch chứ chả không. Nhưng chuyện này hãy để đấy, ta chưa kể.
Sáng ngày thứ ba đào trận địa phục kích anh em đang hì hục phát một bãi cây chó đẻ dọn bãi lập một trạm quan sát thì cô Thưởng cho một cô gánh cả gánh vũ khí mới xin được của huyện đội để trang bị thêm cho Liên đội du kích. Trong gánh vũ khí đó có hai khẩu K44 nòng dài, mỗi khẩu có ba mươi viên đạn cỡ 7,62 ly, rất hiếm, đến bộ đội chủ lực cũng chỉ được cấp cơ số đạn như thế cho một súng. Ngoài hai khẩu K44 báng đỏ như máu, còn ba khẩu súng kíp cổ lỗ, nghe đâu trưng thu được của cánh thợ săn người Mán đỏ, khi bắn phải tọng đạn từ miệng nòng, rồi ấn cái kíp bằng phân dơi và than xoan nhét vào lỗ kích nổ, sau đó mới mổ cò kích nổ để phóng viên đạn đi. Loại súng này đi săn tạm được, vì chỉ bắn một phát là con mồi gục, còn tác chiến chưa biết xoay sở nạp đạn thế nào cho kịp. Thôi, dù sao cũng là súng, còn hơn đánh nhau bằng cuốc thuổng, giáo mác và gậy gộc. Ngoài súng trong gánh vũ khí còn mười lựu đạn có cán gỗ, do quân giới ta tự chế và hai quả mìn lùm lùm như một đĩa xôi, nhô lên cái kíp nổ sơn xanh, cũng do quân giới, nghe nói là ông Trần Đại Nghĩa chế ra. Súng và lựu đạn anh dân quân nào cũng muốn nhận, nhưng còn hai quả mìn thì đều ngần ngại vì đánh mìn cần một người không chỉ gan dạ mà còn phải có kỹ thuật gài mìn, đấu nối các đường dây điện để điểm hỏa cho mìn nổ khi quân Pháp lọt vào bẫy.
Liên đội trưởng, cô Thưởng hỏi, bây giờ còn hai quả mìn, ai nhận?
Cả Liên đội im lặng.
Cô Thưởng lại hỏi, ai có gan dám nhận hai quả mìn?
Vì cô Thưởng nói có vẻ thách thức, “ai có gan”, chạm vào lòng tự ái, nên có người đứng vụt dậy, vỗ vào ngực đánh bộp, dõng dạc nói, tôi nhận.
Không chỉ cô Thưởng mà cả Liên đội quay lại, nhìn người vừa vỗ ngực, nói tôi đầy tự tin. Người ấy tên là Bái, một trang hảo hán, không chỉ của làng mà nổi tiếng đến hàng huyện. Bái tướng mạo khác người, cao lớn, râu hùm hàm én như Từ Hải xuất thế, thét ra lửa nhưng tính tình lại hiền như ngô, như khoai, trẻ con xoa đầu cũng chỉ cười. Bố mẹ mất để lại cho Bái căn nhà gỗ năm gian, sân gạch, cây mít, ao cá và vườn tược rộng rãi. Bái ở một mình, thấy anh ta khi thì hùng hục làm ruộng, khi thì đi buôn bán, kể cả buôn trâu và buôn chó, rồi mua hàng xén dưới tỉnh về đổ cho mấy bà buôn chợ quê. Một lần lên miền ngược buôn trâu, anh xua về cả một đàn mười một con, con nào cũng béo tròn mông, đẹp như tranh vẽ. Người làng trầm trồ khen Bái làm ăn phát tài. Bái chỉ cười. Không ai biết cái cười đó là để che giấu một câu chuyện mà Bái không muốn nói ra. Chuyện đó, chỉ mình Bái biết. Chuyến đi buôn trâu Bái vào nhà trưởng bản Pú Thầu, vùng cao giáp giới Cao Bằng để mua trâu. Trưởng bản giàu có, nhà ngang dãy dọc toàn gỗ quý, có cả đàn trâu hàng trăm con, làm chuồng ngoài rừng, thuê mấy người chăn dắt. Bái hỏi mua trâu, nhưng trưởng bản không nói chuyện mua bán, mà dắt ra cô con gái cao lớn như đô vật, nói, anh làm rể ta, ta cho cả đàn trâu. Bái nhìn cô gái cao lớn, mặt có vẻ đần, lễ phép thưa với trưởng bản, chuyện trăm năm không thể nói một câu là xong, ta phải về lại nhà xin phép gia tộc rồi mới quay lại để trả lời gia chủ. Trưởng bản nghe có lý, bảo, vậy thì ta bán rẻ cho anh mười con trâu đem về nhà, nếu gia tộc đồng ý cho anh lấy con gái ta, thì ta cho thêm vài chục con nữa. Bái đánh trâu về nhà, không nuôi mà bán lại cho chủ khác, chỉ giữ một con làm trâu cảnh và không thấy anh quay lại nhà trưởng bản.
Một lần thấy anh đóng cửa đi vắng cả tuần rồi về vác một gói vừa quần áo, vừa là bộ sách “Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa”, của cụ đồ am hiểu tiếng quốc ngữ thời ấy là Lương Khắc Ninh dịch. Bái ngày ngày làm ruộng còn đêm đêm ngồi nghiền ngẫm Tam quốc chí thông tục. Các buổi trưa nhà anh đông khách dần, hầu hết là đám trẻ đến nghe anh kể từ kết nghĩa vườn đào của Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đến Quan Vũ năm lần vượt ải chém sáu tướng, rồi mười hai kế điều binh khiển tướng, xem cơ trời mà xuất quân của Khổng Minh Gia Cát Lượng. Có đoạn Bái vừa kể vừa làm điệu bộ Trương Phi trên mình ngựa chiến đứng ở cầu Trường Bản oai phong dữ dội, hô một tiếng khiến tướng giặc vỡ tim, người nghe vỗ tay như pháo Tết.
Dường như càng nhập hồn vào Tam quốc, Bái càng chăm sóc đến ngoại hình, một chút râu ở cằm, một cái búi tóc tròn sau gáy, rồi đến cách đi đứng sao cho ra một trang nam tử cầm súng. Được cái Bái cao lớn, mặt hiền và đẹp như Phật, nên có chút râu tóc càng thêm đẹp, khác mấy ông nghiện rượu trong làng, cũng râu tóc như ai, nhưng nhìn bẩn và dị mọ. Là trai, phàm đã là chăm sóc đến nhan sắc thì hay gái gú. Nhưng Bái không màng đến chuyện này, mặc dù có cả gái thành thị đeo đuổi, anh vẫn một mình, không điều tiếng gì về cái sự lẳng lơ trai gái bất chính.
Lúc này, trên bãi tập, Bái tự tin nhận hai quả mìn, làm mọi người hướng ánh nhìn dồn vào anh. Trong các đôi mắt nhìn đầy khâm phục có mắt cô Thưởng. Dường như chỉ một giây, nghĩa là chỉ một cái chớp, mắt cô Thưởng giao cảm với mắt anh Bái. Hai người xấp xỉ tuổi nhau, lại đang cùng cảnh trai chưa vợ, gái chưa chồng nên cái sự giao cảm không phải là thường tình mà có ý như nhắm nhe nhau gì đó.
Cô Thưởng Liên đội trưởng hỏi lại, anh Bái muốn nhận đánh hai quả mìn này à?
Anh Bái bảo, phải.
Cô Thưởng nhắc lại lời của huyện đội trưởng, đánh mìn thì một sống, hai chết, anh nghĩ kỹ chưa?
Anh Bái bảo, đánh trận thì cũng phải có người sống người chết chứ, không phải tôi thì người khác chịu. Tôi có một mình, chết không liên lụy đến ai.
Cô Thưởng cắn răng lên môi, bảo, vâng, cám ơn anh.
Anh Bái nhận hai quả mìn. Ba người nhận ba khẩu súng kíp. Đội trưởng đội du kích thôn Cọ nhận khẩu K44. Năm người của hai đội nhận mười quả lựu đạn, mỗi người hai quả. Vậy là với hai khẩu K44 và năm khẩu súng hỏa mai, hai khẩu các-bin trước đó, vũ khí trang bị cho Liên đội du kích tạm ổn. Một số người không được trang bị vũ khí, rồi cũng tự xoay sở kiếm được khẩu hỏa mai để có súng trong tay không phải vác dao quắm và đòn gánh.
Từ đó, buổi sáng anh em đào trận địa, còn buổi chiều, buổi tối học kỹ thuật bắn súng, kỹ thuật ném lựu đạn và kỹ thuật gài mìn.
Các buổi học đang suôn sẻ, êm thấm thì xảy ra ầm ĩ về chuyện cặp đôi Thảo, Nghĩa làm Liên đội phải dừng tập mất cả giờ, rồi cuối cùng để yên chuyện Ban chỉ huy Liên đội quyết định gạt tên anh Nghĩa không cho tham gia du kích.
Chuyện này quả là không bình thường. Một cặp trai tài gái sắc yêu nhau chính đáng, đâu đến nỗi vì hằn thù hai làng mà bên trai, bố dọa chém đầu con nếu còn yêu cô Thảo, còn bên gái nhốt con gái ở buồng, mẹ cầm gậy ngồi canh cửa không cho con gái ra ngoài để có cơ hội gặp người yêu. Anh xin vào du kích tìm cách gặp Thảo thế là gia đình làm ầm lên.
Cái gì thái quá đều có nguyên nhân sâu xa của nó.
Cô Thưởng, Liên đội trưởng Liên đội du kích nói với anh Hóa phái viên của chủ lực, sẽ phải làm rõ việc ngăn cấm một mối thuận tình của đôi trai gái. Xem ra cô Thưởng cũng đã quan tâm đến việc này. Tuy nhiên lúc này, nước sôi lửa bỏng, Liên đội phải tranh thủ từng giờ luyện tập cả kỹ thuật sử dụng vũ khí đến chiến thuật đánh phục kích và cơ động đánh địch rút chạy nên Liên đội trưởng phải lo trăm công, nghìn việc, không có thời giờ quan tâm đến chuyện yêu đương của cặp trai tài gái sắc.
Một đêm nọ, đội du kích báo động.
Rất nhanh, từ hai làng Xuân Trạch, làng Cọ quân hai đội quân luồn vào rừng cây cứt lợn. Bóng người thấp thoáng dưới trăng loãng. Sương đã xuống, cây cứt lợn quệt nước lên áo các du kích ướt như dúng nước làm cho mùi hoa đỡ gắt nồng.
Bái kẹp ở hai bên nách mỗi bên một quả mìn, cắm cúi bước, bỗng ngửi thấy mùi lá chanh thoang thoảng. Ngoảnh lại, anh biết, cái mùi quyến rũ đó tỏa ra từ mái tóc Liên đội trưởng. Anh dừng chân có ý nhường đường cho Liên đội trưởng bước lên trước. Nhưng anh dừng chân thì cô Thưởng cũng dừng chân. Hai người đứng gần như sát vào nhau, nghe được tiếng thở và mũi Bái không chỉ thấy mùi lá chanh mà còn thoang thoảng mùi xà phòng thơm từ tấm áo màu xanh bó sát người cô Thưởng.
Bái khẽ nói, cô lên trước đi.
Cô Thưởng bảo, cám ơn anh. Tôi đi sau cùng với tổ hậu cần. Anh khỏe không?
Bái mỉm cười, thầm nghĩ, nàng bắt chuyện đây, nói, đã có đánh đấm gì đâu mà không khỏe. Nói rồi, không thấy cô Thưởng nói thêm gì, anh bước đi mạnh mẽ, đạp lên cây cứt lợn rạt rạt.
Dưới sự chỉ đạo của anh Hóa phái viên, hai đội du kích lọt vào khu rừng cọ, vừa kín đáo lại vừa thoáng. Báo động thực binh nên cô Thưởng, Liên đội trưởng đem theo một tốp hậu cần và y tế gồm sáu cô gái.
Ngồi nghỉ mười phút ở rừng cọ, ông Hợi hỏi anh Hóa, sao không đưa cả Liên đội ra trận địa phục kích, lại vào rừng cọ để làm gì?
Anh Hóa chưa trả lời ông Hợi mà cho Liên đội tập trung thành hai hàng ngang, để ông phổ biến nhiệm vụ.
Anh nói, anh được lệnh của cấp trên cho làm việc cùng với các đồng chí chỉ huy Liên đội tổ chức đánh phục kích quân Pháp đi càn. Anh mới nhận được tin, quân báo khu xác định, Đờ Lát đã điều binh đoàn cơ động lính Âu Phi thiện chiến số ba càn lên Bắc Lập Thạch, theo trục lộ xuyên tâm từ Liễn Sơn đến Sơn Đông, Việt Trì. Nhìn vào binh lực thì đây là cuộc càn lớn, sẽ có cả máy bay và pháo binh yểm trợ. Vì thế chúng ta phải chuẩn bị tốt nhất cả về cơ sở vật chất, vũ khí và con người để bước vào trận chiến đấu với quân chủ lực.
Ông Hợi lại hỏi, địch sắp đến tới nơi rồi, sao không cho anh em ra trận địa phục kích chuẩn bị, lại ngồi chờ ở rừng cọ?
Anh Hóa bảo, ta chưa vào trận địa phục kích là còn giữ bí mật trận địa và phòng xa máy bay ném bom dọn đường, tránh thương vong khi chưa nổ súng.
Anh Hóa hỏi lại, các đồng chí đã sẵn sàng cả chưa?
Mọi người lẻ tẻ nói, sẵn sàng.
Anh Hóa nói tiếp, mọi người đã sẵn sàng thì từ giờ phút này, quân lệnh phải như sơn, không ai được làm khác, nghĩ khác. Bây giờ tất cả mỗi người tự đào lấy công sự cá nhân phòng máy bay địch đánh phá, còn có công sự ẩn nấp và chiến đấu.
Mọi người trải rộng trong lòng rừng cọ, bắt tay vào đào công sự. Đất rừng cọ bị chai vì rễ cây cọ hút hết chất, cứng như đá gan trâu, lẫn sỏi, cầm cuốc bổ xuống chối tay. Tuy nhiên đến gần sáng thì mỗi người cũng đào xong cho mình một hố công sự cá nhân được nguỵ trang bằng cỏ.
Lúc mọi người ngồi nghỉ sau đêm đào công sự, bỗng nghe tiếng nhị lứu của anh chàng lẻo khoẻo vang lên điệu trống quân Đức Bác: “Con dao vàng, rọc lá trầu vàng/ Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa…” làm vài người mỉm cười.
Việc phòng bị quả không thừa.
Mặt trời lên chừng một con sào, rừng vừa tan sương, nắng chiếu nhiều rẻ quạt trong lòng rừng cọ. Các đội viên du kích vừa ăn sáng xong, có người còn phì phèo hút thuốc nghe nhị lứu đã nghe tiếng máy bay bà già ùng ục trên nóc rừng. Máy bay bay rất thấp, cắt qua vị trí có công sự ẩn nấp của đội du kích, rồi bất ngờ vòng lại, dội một quả bom vào bếp tổ nuôi quân của các cô gái. Giờ ấy, chị em đang thu dọn bát đĩa trên trận địa của Liên đội, nên bom đánh vào bếp không người và phá nát toàn bộ số lương thực thực phẩm của tổ nuôi quân chuẩn bị cho Liên đội trong cả một tuần.
Máy bay vẫn bay vòng tròn trên nóc rừng cọ và dọc huyện lộ, nơi có trận địa phục kích của Liên đội đã đào sẵn các công sự chiến đấu. Nhiều lúc máy bay sà xuống rất thấp, ở dưới nhìn lên thấy cái bụng đen loang lổ có ba khoang lướt trên đầu. Bái ngửa mặt nhìn bụng máy bay, nhảy ba bước đến đến chỗ Liên đội phó Ngữ, bảo, anh cho tôi mượn khẩu K44.
Ông Ngữ giữ chặt báng súng vì sợ Bái giật mất, hỏi, ai có súng, người đó dùng, mượn thế nào được.
Bái gắt, ông không bắn, để tôi bắn.
Ai cho phép anh bắn? Ông Ngữ cự lại.
Tôi cho phép, Bái nói cứng, bắn giặc thì tự mình bắn, không phải cho phép. Nó lượn trên đầu mình sao mà nhịn được.
Tuy nhiên, Bái không thể nào lấy được khẩu súng của ông Ngữ để bắn vào bụng con bà già trên nóc rừng cọ, đành hậm hực về công sự của mình.
Lúc máy bay đã đi xa, Bái hét vào tai Liên đội trưởng, xin cấp cho tôi một khẩu súng, đi đánh giặc mà không có súng, nhiều lúc tức như bò đá.
Thấy Bái bực bội, nhưng cô Thưởng vẫn nhẹ nhàng, để tôi lên huyện đội xem họ vét kho còn khẩu súng nào nữa không. Nếu họ có thì nhất định tôi đem súng về cho anh.
Cô Thưởng không sai lời, chiều ấy cô lên huyện đội và trở về trên vai là khẩu tiểu liên nhỏ gọn, xinh xinh, có băng tiếp đạn, bắn được liên thanh. Khẩu súng không chỉ làm cho Bái sáng mắt lên mà ông Ngữ, Liên đội phó cũng thèm muốn vì hình thức nho nhỏ, gọn gàng của khẩu tiểu liên.
Bái ngắm nghía khẩu súng, thấy nòng của nó ngắn, nghĩa rằng nó không thể bắn xa như khẩu K44 nòng dài, nên anh gạ đổi súng cho ông Ngữ. Ông Ngữ không chỉ đồng ý tắp lự mà còn cho Bái bao thuốc lá Salem, không biết ông moi được ở đâu. Súng nòng dài về tay, Bái ngồi lau khẩu súng đến khi có thể soi gương, thấy mặt mình méo xếch trên báng súng màu đỏ.
Sau ngày bị bom đánh vào khu nuôi quân, tuy không ai bị thương vong, nhưng không khí của Liên đội khác hẳn, im lặng hơn, khẩn trương hơn, riêng việc đào công sự phòng tránh thì không phải thúc.
Trong Liên đội có một cặp là anh em ruột, hơn nhau chỉ một tuổi, là Bình và Nam. Cặp này rất quý nhau, bảo được nhau, em nghe anh tăm tắp, không có cãi lộn sòng. Vào đội của của ông Hợi, Bình nói với chỉ huy, cho em Nam ở cùng một nhóm để giúp đỡ nhau. Ông Hợi từ chối đề nghị có tính gia đình này, bảo, tớ lại tách hai người ra hai tổ, để rèn tính độc lập. Cho nên Nam ở tổ một, Bình tổ hai. Tuy nhiên khi đào công sự thì Bình nhảy sang giúp em rồi mới về chỗ tự đào cho mình. Đứng trong công sự, Bình dặn em, đánh nhau đừng có vội vã, cứ xông bừa lên là dễ toi mạng. Cũng không nên lùi về phía sau làm một thằng nhút nhát, không đáng mặt thằng đàn ông làng Xuân Trạch. Cứ giữa đội hình mà tiến là an toàn nhất.
Nam nghe lời anh, bảo, vâng, em sẽ biết tự lo liệu. Thấy em nghe lời, Nam cầm gói xôi sắn với hành mỡ mẹ mới gửi bẻ cho em quá nửa, rồi mới quay lại cỗ công sự của mình.
Anh Hóa họp Ban chỉ huy Liên đội.
Anh nói, thằng Pháp cho máy bay đánh bom để dẹp đường trước khi mở cuộc càn. Ta không được lộ diện để gây bất ngờ cho Pháp. Hôm qua máy bay thả bom xuống đầu chợ Miễu, làm chết bảy người, vì tiểu thương chợ Miễu chủ quan, cho rằng đây là khu dân sinh, không phải mục tiêu quân sự. Đề phòng máy bay Pháp tiếp tục đánh bom vào các làng ven đường nên phải phái một tốp du kích về thôn Xuân Trạch, thôn Cọ giúp bà con sơ tán và đào hầm tránh trú.
Tổ đi giúp dân do cô Thưởng phụ trách. Quân số đi cùng cô Thưởng là toàn bộ đội du kích thôn Cọ.
Có tiếng hỏi, sao không để tổ du kích thôn Xuân Trạch về giúp làng có tiện không?
Anh Hóa nói, cho người làng về giúp làng, đã xảy ra hiện tượng, ai cũng lo cho nhà mình trước rồi mới đến nhà hàng xóm, cho nên cử du kích làng Cọ giúp làng Xuân Trạch, vừa thêm đoàn kết, vừa công bằng.
Cô Thưởng nói với ta, sáng nay em đi với cô.
Ta nói với cô, thưa cô, em thích có khẩu súng.
Cô bảo, được rồi, để cô lo.
Đi một quãng, cô lại bảo, về làng, em có qua nhà không?
Ta nói, hôm qua máy bay đánh bom vào bếp nấu của Liên đội, chắc mẹ ngồi ở nhà hoảng lắm. Em mà chạy về thì mẹ giữ em lại mất nên em không về.
Cô bảo, tùy em.
Trong đoàn đi giúp thôn Xuân Trạch, có Bái. Lưng đeo hai quả mìn, vai vác khẩu K44, tướng mạo râu hùm, hàm én của Bái càng được tôn lên cái đẹp tráng sĩ nhiễm từ sách Tam quốc, lại vừa là trang nam nhi hào hoa, dũng liệt trong tranh sử Việt cổ.
Ở đoạn đường hẹp rạch qua bãi cây cứt lợn, gặp cô Thưởng trong hàng quân, Bái nói, tôi sẽ thu dọn nhà cô trước rồi đến nhà hàng xóm.
Cô Thưởng bảo, nhà tôi có gì đâu mà thu dọn.
Bái nói, thời này, cái bát mẻ cũng quý. Tôi sẽ đào cái lán nửa nổi nửa chìm cất đồ đạc, thóc gạo xuống đấy, để lỡ bom đánh có cháy nhà vẫn không bị tay trắng.
Thưởng im không nói lại. Bái nghĩ, cô đồng ý với kế hoạch của anh. Anh bước nhanh lên đầu hàng quân, để lát vào làng thì rẽ ngay vào nhà cô Thưởng kẻo người khác lại chiếm phần. Bái nghĩ xa vậy thôi, chả ai tranh phần của anh cả. Anh đẩy cửa bước vào nhà của Thưởng, thấy đồ đạc vẫn vẹn nguyên, xếp đặt gọn gẽ, sạch sẽ. Phải làm cái lán nửa nổi nửa chìm rộng mới xếp được hết đồ đạc. May mà ngoài vườn gia chủ đã có sẵn mấy cái hố, trước đó hẳn là đào để đổ rác hoặc chứa nước tưới cây, Bái chỉ việc đào sâu thêm chừng một mét là có thể làm thành căn lán nửa nổi nửa chìm chứa đồ.
Ta đi theo cô Thưởng vòng một vòng gần như đi hết cả làng. Vì bám theo cô nên ta về qua nhà. Buổi sáng ta bảo cô không về nhà vì sợ mẹ giữ, không cho đi du kích nữa. Nhưng bây giờ về gặp mẹ, ta nói lại với cô Thưởng muốn ở lại với mẹ đến chiều sẽ ra trận địa. Cô bảo ta cứ ở nhà với mẹ, đêm ngủ ở nhà, sáng mai ra trận địa. Ta mới đi du kích được mấy hôm, lại ăn ngủ ngoài trận địa, có một trận bom đánh vào khu nhà bếp của nuôi quân mà mẹ nhìn ta khác hẳn, cứ như ta xa nhà lâu lắm rồi. Mẹ ôm lấy ta, thít chặt vòng tay. Ta chưa bao giờ được mẹ ôm như thế từ hồi học hết lớp bốn, rồi do huyện không có trường cấp hai, ta ở nhà đi làm với mẹ.
Mẹ bảo ta, từ hôm bom đánh vào trận địa du kích, mẹ mất ăn mất ngủ vì lo cho ta.
Ta nói, bom nổ còn xa con lắm, không có gì phải lo.
Mẹ bảo, bom đạn không có mắt, biết thế nào mà lần. Mẹ ôm ta hồi lâu rồi đứng dậy, lấy cái bánh không biết mẹ mua ở đâu, đưa cho ta ăn. Ta vừa ăn vừa cầm tay mẹ. Với ta, mẹ là người tốt nhất trên trần gian này. Từ ngày bố mất vì theo bộ đội đánh trận Sông Lô năm 1947, mẹ dành hết tình yêu của mẹ cho ta và anh. Anh đã có vợ, nên ta được phần hơn là đương nhiên. Như nhiều gia đình trong thôn, nhà ta chỉ đủ ăn và hai vụ gặt, còn đến tháng Ba, tháng Tám thì thiếu gạo, cơm thường độn sắn. Mẹ ngồi ở đầu nồi, xới cho ta bát cơm nhiều cơm hơn sắn. Ta biết sự chăm sóc âm thầm này của mẹ, sẻ cơm cho mẹ ăn, nhưng mẹ lại sẻ lại cho ta. Từ hôm hai anh em đi du kích, ở nhà với con dâu, chị bảo, mẹ ngẩn ngơ cả ngày. Trận địa du kích chỉ cách làng non cây số mà với mẹ như xa lắm, chỉ ngồi bậc cửa ngóng ra ngoài đường, ai đi qua cũng hỏi thăm, có gặp thằng út nhà tôi không. Có người bảo gặp, có người bảo không gặp, nên mẹ sốt ruột, ngủ không yên.
Ta ngủ lại ở nhà với mẹ một đêm, sáng hôm sau, mờ đất ta đã ra với đội du kích. Vẫn như hôm qua, đội du kích làng Cọ vẫn xuống làng giúp dân cất giấu tài sản, đào công sự để dân ẩn nấp khi có máy bay.
Gần trưa, sương vừa tan, nắng trải vàng trên vùng đồi nở trắng hoa cứt lợn, rừng cọ xanh ngát, Bái đang hì hục vác đồ từ nhà xuống xếp vào hầm nửa nổi nửa chìm thì tiếng máy bay ập đến như xay lúa trên đầu.
Đây là thời cơ để Bái không còn phải cầu xin mượn súng bắn máy bay vì anh đã được cô Thưởng trang bị cho khẩu K44, xin từ huyện đội. Bái nhảy lên khỏi căn hầm nửa nổi nửa chìm đang xếp dở đồ ngổn ngang, đến bên gốc cau gần hầm đặt súng lên bả vai, chĩa nòng lên trời, nheo mắt nhìn qua đầu ruồi, chờ máy bay quay lại. Bái đã tự nhắc mình, nếu thằng đa-cô-ta bay thấp như hôm qua, anh sẽ nã đạn vào cái bụng to bè khoang khuể của nó.
Hồn vía Bái hướng cả lên trời, nên cô Thưởng từ xa bước lại Bái không biết. Cho đến khi nghe tiếng “không được bắn”, ngoảnh lại, Bái đã thấy cô Thưởng đứng bên cạnh từ hồi nào rồi.
Bái bảo, sao lại không bắn?
Cô Thưởng nói, anh định để nó phá nát cái làng này à?
Bái bảo, tôi bắn, nó tan xác rồi, còn đâu mà phá nát làng.
Cô Thưởng vẫn kiên quyết, nổ súng phải có lệnh của cấp trên.
Hai người còn đang tranh luận thì tiếng bom hú như xé ải trên đầu. Từ hôm qua cả Bái và Thưởng đều biết, tiếng bom hú thế này là nổ gần. Bái vừa kịp đẩy Thưởng xuống công sự, đổ người theo thì bom nổ ngoài đầu làng, cây trong vườn ngả nghiêng, đất bắn tung tóe như bưng cả mo đất hắt lên người.
Nằm trong hố nửa nổi nửa chìm, chờ cho không còn tiếng bom tiếp theo, tiếng máy bay đã xa, Bái mới nhận ra mình đang nằm đè lên cô Thưởng, theo thứ tự dưới cùng chiếc chăn bông đến Thưởng, đến Bái và trên cùng là khẩu K44, nòng nghếch lên trời.
Co người trở dậy, phủi đám đất bám trên mặt cô Thưởng, Bái nói, xin lỗi đã làm cô nghẹt thở.
Cô Thưởng vục dậy, bảo, không có gì.
Cô vấn tóc lại, định bước lên khỏi căn hầm nửa nổi nửa chìm thì Bái giữ lấy tay, bảo, cô đừng đi vội. Tôi muốn nói vài câu với Thưởng.
Chuyện Tam quốc à, cô Thưởng hỏi vui.
Mặt Bái bỗng đỏ tưng bừng, râu hùm, hàm én rung rung, bảo, không, tôi nói chuyện tôi.
Đến lượt mặt cô Thưởng cũng đỏ tưng bừng. Cô bảo, anh đừng nói gì bây giờ.
Bái bảo, tôi phải nói. Tôi đã nghĩ từ lâu.
Cô Thưởng bảo, anh không nói thì tôi cũng biết anh định nói gì.
Bái hỏi, tôi không nói làm sao cô biết?
Cô Thưởng bảo, phụ nữ biết những điều đàn ông nghĩ trong đầu chưa kịp nói.
Nói xong, cô Thưởng trèo lên khỏi hầm nửa nổi nửa chìm.
Bái nói với theo, “này”, nhưng Thưởng đã đi thẳng ra cổng.
Cả làng Xuân Trạch và làng Cọ bị xới tung lên với công sự và giao thông hào nối từ làng ra ngoài đồng và ra rừng. Làng vốn hiền lành với những mái nhà lợp lá cọ, tường trình đất, những lối xóm quanh co cỏ mọc chỉ chừa một lối vừa bàn chân, với bờ tre, vườn cây và ao nuôi cá bỗng trở thành trận địa của du kích phòng ngự ba lớp rào, ổ phục kích và một cái chòi cao lên làm vị trí quan sát. Cô Thưởng đi kiểm tra quanh làng, bỗng nhận ra sức ép của chiến tranh đã đè lên cái làng vốn trước đó chỉ biết cày cấy và những câu chuyện xoay quanh về con cái. Chiến tranh làm cho người làng thay đổi, dễ bảo nhau hơn, gần gũi, chia sẻ với nhau nhiều hơn lúc bình thường. Với ý nghĩ ấy, cô Thưởng chợt nhớ đến Bái. Một người đàn ông ở cùng làng lâu nay cô không hề để ý đến, chỉ biết qua những câu chuyện của người này, người khác, rằng đó là một kẻ khác người với các thú chơi ngông, đọc sách cổ xưa và ham mê võ nghệ nhưng lại sống ẩn mình. Trong đội du kích, Thưởng thấy Bái không chơi ngông như người ta đồn thổi mà là một người đàn ông can đảm và mạnh mẽ, một ngoại hình ưa nhìn, một thái độ thân gần và quá chú ý đến Thưởng mỗi khi có dịp gần nhau. Thưởng quan tâm con người này hơn những người đàn ông từng vây quanh cô. Hơn thế, bằng linh cảm riêng của phụ nữ, Thưởng đọc được cả ý nghĩ chân thành và cả quyết của con người này và tôn trọng ý nghĩ anh chưa nói ra…
H.Đ.C