NGUYỄN VĂN DÂN
1. Một số xu hướng chủ yếu của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại
Kể từ ngày Đổi mới, trong giới lý luận nước ta đang có ý kiến đặt vấn đề đánh giá lại lịch sử. Ví dụ gần đây trong các cuộc hội thảo về triều Nguyễn, giới sử học cho rằng cần phải đánh giá lại công và tội của triều Nguyễn theo quan điểm công bằng và khách quan. Cùng với loại ý kiến đó, đề tài lịch sử trở thành một đề tài chủ chốt trong sáng tác văn học. Nhiều nhà văn đã mạnh dạn đề xuất những cách nhìn mới về lịch sử, mở rộng cái nhìn đối với nhiều thời đại trong quá khứ. Từ đó, tiểu thuyết lịch sử được phát triển phong phú và đa dạng với nhiều xu hướng khác nhau.
Với cái nhìn tổng thể về bức tranh sáng tác tiểu thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam đương đại, và xét theo góc độ mục đích và quan niệm nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi cho rằng có thể nhận thấy có ba xu hướng rõ nét trong tiểu thuyết lịch sử như sau.
a. Tiểu thuyết lịch sử chương hồi khách quan
Nằm trong vùng văn hoá - văn học Đông Á, tiểu thuyết lịch sử nước ta ban đầu cũng chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lịch sử chương hồi Trung Quốc. Có thể nhận thấy mô hình tiểu thuyết lịch sử chương hồi của La Quán Trung (Trung Quốc) đã để dấu ấn trong nhiều bộ tiểu thuyết lịch sử của nước ta từ cuối thế kỷ XVII đến nay. Trong Hoàng Lê nhất thống chí, một cuốn tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu của thời kỳ đầu, cách kể chuyện của Ngô gia văn phái cũng lặp lại văn phong kể chuyện của La Quán Trung. Trong cuốn tiểu thuyết này, mở đầu mỗi hồi đều có hai câu văn theo thể biền ngẫu tóm lược tinh thần nội dung của hồi đó, ví dụ: “Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung / Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín” (Hồi thứ nhất). Ngoài ra, nhóm tác giả thường dùng những mẫu lời dẫn như “Lại nói...”, “Một hôm...” để chuyển đoạn. Kết thúc mỗi hồi đều có câu kết mở: “Muốn biết việc tới thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải”. Xu hướng này kéo dài cho đến tận thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI ngày nay.
Cụ thể là đến thời đương đại, một số nhà văn vẫn viết tiểu thuyết lịch sử theo cấu trúc chương hồi. Điển hình cho xu hướng này là nhà văn Ngô Văn Phú, một tác giả say sưa viết tiểu thuyết lịch sử (Gươm thần Vạn Kiếp [1991], ấn kiếm trời ban [1998], Cờ lau dựng nước [1999], Uy Viễn tướng công [2003], Lý Công Uẩn [2006]). Cũng giống như Nguyễn Huy Tưởng trước đó, Ngô Văn Phú không rập khuôn theo mô hình tiểu thuyết chương hồi. Ông không đặt ra các “hồi” mà gọi là “chương”, thậm chí có cuốn tiểu thuyết trong đó ông chỉ đặt tên chương bằng các chữ số; ông cũng không lặp lại các câu mở đầu đối ngẫu và các mẫu lời dẫn và lời kết mở như tiểu thuyết chương hồi cổ điển, nhưng lối kể chuyện của ông vẫn mang phong cách của tiểu thuyết chương hồi. Có lúc, dư âm của mô hình tiểu thuyết chương hồi vẫn còn được giữ lại khi tác giả thay các câu văn đối ngẫu ở đầu mỗi chương bằng một lời đề từ trích từ những câu cách ngôn, châm ngôn, ca dao cổ, thơ ca, v.v... Ví dụ trong Gươm thần Vạn Kiếp, suốt toàn bộ 21 chương của cuốn tiểu thuyết, ở đầu mỗi chương đều có một lời đề từ như: “Nghiệp lớn thuộc về người tài đức (Lời nhà hiền triết)” [1]; “Bên dưới có sông, bên trên có chợ / Ta cưới mình làm vợ, nên chăng? (Ca dao cổ)” [2]; hay ở chương 10 khi nói về giai đoạn làm nghề đốt than của Trần Khánh Dư thì lại có hai câu thơ của ông đề ở đầu chương: “Một gánh kiền khôn quảy xuống ngàn / Hỏi rằng chi đó, gửi rằng than”. Theo phong cách này, sự việc và hiện tượng lịch sử tự mình dẫn dắt câu chuyện ở ngôi thứ ba, không có sự can thiệp của tác giả.
Đặc biệt gần đây có bộ tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh (2 tập, Nxb. Văn hoá - Thông tin, 2006). Nó đặc biệt là vì tác giả đã tuân thủ khá nghiêm ngặt mô hình tiểu thuyết lịch sử chương hồi. Ở đây, Lê Đình Danh đã lặp lại cách viết của La Quán Trung nhưng có biến tấu đôi chút. Giống như Ngô Văn Phú, tác giả cũng chỉ đặt ra các “chương” chứ không gọi là “hồi”. Tuy nhiên ở đầu mỗi chương, tác giả vẫn đặt hai câu văn đối ngẫu như tiểu thuyết chương hồi cổ điển. Tác giả cũng sử dụng lối chuyển đoạn của tiểu thuyết chương hồi cổ điển, nhưng có thay đổi một chút cho có sắc thái riêng, ví dụ như tác giả thường sử dụng cụm từ mào đầu: “Nói về...”, “Một hôm...” để chuyển tiếp sang một sự kiện khác.
Nhìn chung, trong các cuốn tiểu thuyết từ Hoàng Lê nhất thống chí đến tiểu thuyết lịch sử sau này của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như trong các cuốn tiểu thuyết lịch sử ở thời đương đại của Ngô Văn Phú hay của Lê Đình Danh, mặc dù việc tái hiện lịch sử vẫn tuân thủ cái nhìn chủ quan của người viết, nhưng các tác giả trong xu hướng này đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ tái hiện tuần tự các sự kiện lịch sử theo một bút pháp khách quan, không có sự can thiệp trực tiếp của người viết. Các tác giả để cho các sự kiện và nhân vật tự thể hiện bối cảnh, tinh thần và ý nghĩa của thời đại theo diễn biến tuyến tính của thời gian thực tế. Trong suốt cuốn tiểu thuyết chỉ có giọng văn kể chuyện ở ngôi thứ ba và các đoạn đối thoại giữa các nhân vật. Cuốn tiểu thuyết diễn ra như một bộ phim lịch đại. Sức hấp dẫn của nó nằm ở các sự kiện và hành động của nhân vật chứ không phải ở yếu tố bình luận của tác giả, cho dù là bình luận thông qua lời nhân vật. Vì thế ý nghĩa giáo dục lịch sử của tiểu thuyết chương hồi nghiêng về tính thụ động, tức là nó hoàn toàn phó mặc cho sự tiếp nhận của độc giả.
b. Tiểu thuyết lịch sử giáo huấn
Cách kể chuyện thụ động của tiểu thuyết chương hồi khách quan không thoả mãn được mục đích giáo dục lịch sử và giáo huấn cho cuộc sống của ngày hôm nay. Vì thế, đa số các tác giả ngày nay muốn cải tiến cách viết đó. Thay cho cách viết thuần tuý khách quan như tiểu thuyết lịch sử chương hồi, một số tác giả đã lựa chọn một lối viết kể chuyện giáo huấn mang tính sư phạm chủ động. Trong xu hướng này, Hoàng Quốc Hải là một đại diện tiêu biểu.
Với động cơ giáo huấn, Hoàng Quốc Hải không lựa chọn cách viết thuần tuý khách quan như tiểu thuyết lịch sử chương hồi cổ điển. Mà ông lựa chọn một lối viết kể chuyện giáo huấn mang tính sư phạm. Từ năm 1987 đến năm 1994, ông đã viết liền một mạch bốn cuốn tiểu thuyết về triều Trần: Huyền Trân công chúa (1987), Bão táp cung đình (1989), Thăng Long nổi giận (1991), Vương triều sụp đổ (1994), được gọi chung là bộ Bão táp triều Trần. Tiếp đó, để phục vụ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, ông lại miệt mài bắt tay ngay viết bộ tiểu thuyết bốn tập Tám triều vua Lý với độ dày khoảng 3.000 trang, bắt đầu từ năm 1994 đến năm 2009 thì hoàn thành, với tâm nguyện duy nhất là để dân ta hiểu sử ta, khơi dậy lòng tự hào dân tộc cho con dân Việt Nam. Đồng thời ông cũng viết bổ sung thêm hai tập tiểu thuyết về triều Trần (Đuổi quân Mông - Thát, Huyết chiến Bạch Đằng) để cùng với bốn tập cũ làm thành bộ sáu Bão táp triều Trần hoàn chỉnh (cùng xuất bản với Tám triều vua Lý năm 2010). Có thể nói, Hoàng Quốc Hải hiện đang là đại diện tiêu biểu cho xu hướng tiểu thuyết lịch sử giáo huấn.
Trong tiểu thuyết lịch sử của mình, thông qua các nhân vật, Hoàng Quốc Hải dành khá nhiều đoạn để bộc bạch những lời có tính giáo huấn về nhân tình, thế thái, về vai trò lịch sử của dân tộc. Ông cũng đưa ra những lời giáo huấn về nhân cách, về đạo làm người, đạo nhân nghĩa. Chẳng hạn trong Huyền Trân công chúa, ông đã xây dựng hình tượng vua Trần Nhân Tôn như là một đấng minh quân, một vị vua mẫu mực có những suy nghĩ của một bậc chính nhân quân tử. Ông đặt vào miệng nhà vua những lời giáo huấn dành cho quan Trung tán Đoàn Nhữ Hài như thể ông muốn gửi gắm những suy tư của chính mình:
“Ta không chấp nhận việc tiến về phương Nam! Ngươi thử nghĩ xem, nếu bây giờ người Nguyên cũng đặt chuyện tiến xuống phía Nam, tiến vào Đại Việt thì sao? Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân [Điều gì mình không muốn thì đừng bắt người khác muốn]. Người nhân nghĩa không thể vô cớ cất quân đi xâm lấn bờ cõi người khác. (...) Ta khuyên khanh phải tĩnh tâm lại. Phải hằng tâm suy nghĩ về điều thiện. Phải làm nhiều việc thiện. Nếu không lấy cái thiện để chính tâm, thời ở vào vị thế quan chức như khanh, dễ sa vào bể dục, để tự mình biện hộ cho mình mỗi khi làm điều ác.”
Ở một chỗ khác, nhà văn lại để cho vua Nhân Tôn phát biểu:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ tự cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. (...) Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ Trung Quốc. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta thì gặm nhấm ta. (...) Vậy nên các người phải nhớ điều ta dặn: ‘Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác’.”
Những đoạn giáo huấn như thế xuất hiện rất nhiều trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải. Với chủ trương giáo huấn như vậy, lẽ dĩ nhiên trong tác phẩm của ông, cái lý trí sẽ lấn át tình cảm, nhiều khi dẫn đến việc diễn tả suy nghĩ và hành động của nhân vật một cách đơn giản. Ví dụ điển hình cho cách làm này là đoạn diễn tả Huyền Trân đồng ý nhận lời lấy vua Chiêm Thành Chế Mân trước gợi ý của vua cha Nhân Tôn. Trước một vấn đề hệ trọng của cả đời người con gái mà tác giả cho nàng suy nghĩ một cách đầy lý trí và quá đơn giản để đi đến quyết định chấp thuận chỉ trong vòng hơn nửa trang sách. Trong suy nghĩ của mình, Huyền Trân đã tự nguyện chấp nhận vai trò làm sứ giả cứu tinh cho vận mệnh đất nước mà không hề băn khoăn đến số phận của cá nhân mình. Tác giả đã để cho nhân vật lập luận theo lý trí chứ không băn khoăn day dứt về tâm lý. Có thể nói, các nhân vật trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải mang nặng dấu ấn quan điểm “dùng văn để dạy sử” của nhà văn.
Chính vì vậy mà trong cuộc toạ đàm về bộ tiểu thuyết triều Trần của Hoàng Quốc Hải do báo Văn nghệ kết hợp với Nxb. Phụ nữ tổ chức tại Hà Nội ngày 18 - 10 - 2003, các đại biểu tham dự đều nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục của tiểu thuyết lịch sử của nhà văn, ghi nhận “phong cách sử thi truyền thống, với văn phong dễ đọc, phục vụ đại chúng. Tuy nhiên chính vì thế mà trong cuộc toạ đàm cũng có ý kiến cho rằng việc lệ thuộc gò bó vào sự thật lịch sử đã làm cho nghệ thuật hư cấu của Hoàng Quốc Hải bị hạn chế, (...) từ đó làm cho hiệu quả nghệ thuật chưa thoả mãn được người đọc”.[1] Ta thấy nhà văn vẫn triển khai câu chuyện trong khung cảnh thời gian tuyến tính của lối viết chương hồi truyền thống. Có nghĩa là, trong việc cải tiến lối viết của tiểu thuyết lịch sử chương hồi, tiểu thuyết lịch sử giáo huấn vẫn chưa có một sự bứt phá về mặt nghệ thuật.
Dù sao, trước tình hình “đói sử” như Hoàng Quốc Hải đã nói về người dân nước ta hiện nay, thì việc ông thực hiện “văn chương hoá lịch sử” theo tinh thần giáo huấn đã là một đóng góp lớn cho xã hội nói chung và cho thể loại tiểu thuyết lịch sử nói riêng. Tiểu thuyết của ông đã tái hiện những giai đoạn lịch sử dài của dân tộc, truyền đạt được cái “tinh thần của lịch sử” như lời của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam kết luận cuộc toạ đàm. Có thể nói, tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải đến với bạn đọc như những bộ phim lịch sử hấp dẫn cho đại chúng Nhân dân. Đó chính là thành công của một nhà văn đầy tâm huyết với lịch sử dân tộc.
c. Tiểu thuyết lịch sử luận giải
Trong cuộc toạ đàm nói trên, ý kiến nhận xét về sự hạn chế của nghệ thuật hư cấu và của hiệu quả nghệ thuật của Hoàng Quốc Hải chính là do hai nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và Nguyễn Quang Thân đưa ra, cả hai đều là những người đã được nhận giải thưởng lớn trong các cuộc thi tiểu thuyết gần đây của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Xuân Khánh tuyên bố tiểu thuyết lịch sử phải đi sâu khai thác các yếu tố như luận đề, tâm lý. Nguyễn Quang Thân nhấn mạnh sự tự do phóng khoáng của trực giác. Thực tế, qua tác phẩm của hai nhà văn này ta có thể thấy, mặc dù cùng có mục đích cải tiến cách viết của tiểu thuyết chương hồi, nhưng họ không lựa chọn cách viết sư phạm của Hoàng Quốc Hải, mà họ lựa chọn những giai đoạn và sự kiện lịch sử “có vấn đề” để khai thác và luận giải. Vì thế, chúng ta có thể nói đến một xu hướng thứ ba là tiểu thuyết lịch sử luận giải mà Nguyễn Xuân Khánh và Nguyễn Quang Thân là đại diện.
Hồ Quý Ly là một nhân vật “có vấn đề” trong lịch sử Việt Nam. Hiện đang có những ý kiến nhận định khác nhau về nhân vật này. Theo tôi, cái “luận đề” [chữ dùng của Nguyễn Xuân Khánh] xuyên suốt tác phẩm Hồ Quý Ly chính là luận đề về ý nghĩa “thời thế” của nhân vật này trong thời đại suy tàn của nhà Trần, khi mà số phận của triều Trần đã không còn cho phép nó đảm đương trọng trách của lịch sử. Trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, cái luận đề đó xuất hiện giống như một chủ đề quán xuyến và luôn trở đi trở lại trong các cuộc nghị bàn của các nhân vật lịch sử. Có thể nói, Nguyễn Xuân Khánh đã kể lại các sự kiện lịch sử để luận giải thế sự. Trong tác phẩm của mình, nhà văn chủ yếu kể mà ít tả cảnh, tả người. Nhân vật không được thể hiện bằng hình ảnh mà bằng ý nghĩ, tư tưởng. Đọc suốt cả cuốn tiểu thuyết ta không hình dung được các nhân vật chính có bộ mặt và hình dáng như thế nào, mà ta chỉ thấy hiện lên rõ nét tư tưởng của mỗi người. Để phù hợp với chủ trương luận giải lịch sử này, Nguyễn Xuân Khánh không mô tả sự kiện theo trình tự thời gian tuyến tính như Hoàng Quốc Hải, mà thực hiện việc triển khai một thời gian đa chiều, hiện tại đan xen quá khứ. Bằng cách đó, vấn đề cần luận giải cứ trở đi trở lại để được xem xét từ nhiều góc độ và cung bậc khác nhau. Từ đó, tác phẩm của nhà văn diễn ra không giống một bộ phim như tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải, mà nó mở ra như bản giao hưởng chương hồi với một chủ đề quán xuyến lặp đi lặp lại. Trong ngôn ngữ âm nhạc thế giới, người ta gọi cái chủ đề lặp đi lặp lại đó là “leitmotiv” [lai-tmô-típ].
Trong khi đó Nguyễn Quang Thân cũng lựa chọn những nhân vật “có vấn đề” của triều đại nhà Lê, đặc biệt là Nguyễn Trãi, để viết tác phẩm Hội thề. Ở đây, cái “leitmotiv” được lựa chọn là sự xung đột giữa quyền lực võ biền, đại diện là quan chức nhà Lê, với giới trí thức mà đại diện là Nguyễn Trãi. Đây là chủ đề chính xuyên suốt tác phẩm. Sự trở đi trở lại của chủ đề chính cũng diễn ra trong thời gian đa chiều như trong Hồ Quý Ly. Mục đích của Nguyễn Quang Thân là muốn đề cao tài trí của bậc trí thức Nguyễn Trãi, sự tài trí đã giúp dân ta giành chiến thắng trong hoà bình mà bớt được hoạ binh đao. Chỉ có điều, không biết nhà văn có phóng đại quá mức cái mâu thuẫn giữa quyền lực võ biền với trí thức không, và liệu có phần nào bất công với giới võ tướng nhà Lê? Chẳng lẽ với những thành tích và hy sinh mất mát sau mười năm kháng chiến chống quân Minh, giới võ tướng nhà Lê lại hiện ra xấu xa đến thế? Còn lời lẽ của Nguyễn Trãi trong Hội thề cũng có vẻ quá nhún nhường trước kẻ thù. Trong các trước tác được lưu giữ của Nguyễn Trãi, chúng tôi thấy ông tỏ ra kiêu hùng hơn thế nhiều.
Có thể nói, mặc dù còn nhiều vấn đề phải bàn về nghệ thuật hư cấu, nhưng xu hướng thứ ba này có vẻ phù hợp với tầm đón nhận của công chúng thời hiện đại. Tuy nhiên, xu hướng này không giữ vị trí độc tôn, mà nó bổ sung cho hai xu hướng kia để gia tăng sức hấp dẫn của tiểu thuyết lịch sử.
***
Gần đây, dựa vào một lý thuyết được gọi là “hậu hiện đại”, có ý kiến cho rằng đang xuất hiện một xu hướng mới trong tiểu thuyết lịch sử, đó là trở về với “tiểu tự sự”, với văn hoá dân gian, với đời thường; từ bỏ diễn ngôn “đại tự sự” chính trị, để chuyển từ cấp vĩ mô của các vĩ nhân và quốc gia đại sự sang cấp vi mô của các cá nhân dân thường.
Đối chiếu với thực tiễn sáng tác của tiểu thuyết lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam, chúng tôi thấy có đôi điều muốn trao đổi. Thực tế sáng tác cho thấy rằng ngay từ thế kỷ XIX, tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn lãng mạn thế giới đã có hai xu hướng khá rõ rệt: Một bên là loại tiểu thuyết viết về các nhân vật lịch sử, các vua chúa, hoàng hậu và chuyện quốc gia đại sự, như các cuốn tiểu thuyết Cinq-Mars (1826) của Alfred de Vigny, Hoàng hậu Margot (1845) của Alexandre Dumas cha, Năm chín mươi ba (1874) của Victor Hugo (viết về các sự kiện và nhân vật có thật của giai đoạn xung quanh năm 1793 sau Cách mạng Pháp, đó là chưa kể một loạt vở kịch của Hugo viết về các nhân vật lịch sử có thật), Quo Vadis (1895) của Henryk Sienkiewicz kể về triều đại của hoàng đế La Mã Nero,...; Một bên là loại tiểu thuyết lịch sử viết về các giai đoạn lịch sử nhưng lại lấy những con người rất đời thường làm nhân vật trung tâm và đưa họ lên tuyến đầu của tiểu thuyết. Trong số những nhân vật đời thường này ta thấy có những anh hùng thảo khấu truyền thuyết được đưa vào tiểu thuyết lịch sử như Robin Hood trong Ivanhoe (1820) của Walter Scott, hay trong Những cuộc phiêu lưu vui vẻ của Robin Hood của Howard Pyle (1883); có những đám dân Digan, thằng gù ở Nhà thờ Đức Bà ở Paris trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà ở Paris (1831) của Victor Hugo; có những kẻ trộm cắp, những trẻ em đường phố, những kẻ làm thuê, và nói chung là “những người khốn khổ” mà điển hình là Jean Valjean trong Những người khốn khổ (1862) của Hugo; rồi đến những người dân thường bị hãm hại để rồi vượt ngục, mua được chức tước và trả thù như anh chàng thương gia Dantès mà về sau là bá tước Monte-Cristo trong Bá tước Monte-Cristo (1845 - 1846) của Alexandre Dumas cha, đến những anh lính ngự lâm sống cạnh vua chúa quan lại nhưng lại theo phương châm tình nghĩa dân dã “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” chứ không theo lối sống vương giả trong Ba người lính ngự lâm (1845) cũng của Dumas cha, v.v... Có thể nói, trong tiểu thuyết lịch sử của chủ nghĩa lãng mạn cũng đã hình thành xu hướng đề cập đến những con người bình thường chứ không phải chỉ nói về các nhân vật vĩ nhân và quốc gia đại sự.
Trong khi đó, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã có một truyền thống được hình thành từ cuối thế kỷ XVII với cuốn gia phả lịch sử viết bằng Hán văn dưới dạng tiểu thuyết chương hồi là Hoan châu ký (không rõ tác giả), sau đó là cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tiên thực sự Nam triều công nghiệp diễn chí (1719), viết bằng Hán văn, của Nguyễn Khoa Chiêm, rồi tiếp đến là cuốn tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí (cuối thế kỷ XVIII), cũng được viết bằng Hán văn, của Ngô Gia Văn Phái. Truyền thống này có xu hướng viết về các nhân vật lịch sử, các bậc vĩ nhân. Tất nhiên nhân vật quần chúng vẫn được mô tả làm nền. Nhưng điều quan trọng nhất là các cuốn tiểu thuyết lịch sử đó đều viết về những chuyện quốc gia đại sự, những chuyện chính trị và vận mệnh của đất nước.
Đến thời hiện đại, ngay từ những năm trước Cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng là một trong những người đầu tiên tiếp nối xu hướng lịch sử nói trên. Trong những năm 1940 ông đã cho xuất bản hai cuốn tiểu thuyết lịch sử: Đêm hội Long Trì (1942) và An Tư (1944). Ngày nay, thực tiễn sáng tác cũng cho thấy tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại vẫn tiếp nối xu hướng viết về các vĩ nhân và quốc gia đại sự. Từ các bậc vua chúa như Lý Công Uẩn và các vị vua đời Lý khác đến các vua quan tướng lĩnh đời Trần, đến dòng họ nhà Hồ, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung, các vua chúa triều Nguyễn..., các nhân vật lịch sử thời hiện đại như Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc... vẫn đang trở thành đối tượng quan tâm của các tiểu thuyết gia lịch sử như Ngô Văn Phú, Sơn Tùng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Lê Đình Danh..., mà nếu chỉ tính những tác phẩm mới nhất thì cũng có thể kể ra một loạt tiểu thuyết điển hình như Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, bộ sáu tiểu thuyết Bão táp triều Trần và bộ bốn tiểu thuyết Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải và gần đây nhất là tiểu thuyết Minh sư của Thái Bá Lợi kể về chúa Nguyễn Hoàng mở cõi, Thế kỷ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam kể về phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh, Từ Dụ Thái hậu của Trần Thuỳ Mai nói về mẹ ruột của hoàng đế Tự Đức... Các đối tượng đó đều là những vĩ nhân, và sự nghiệp độc lập dân tộc của họ chính là chuyện quốc gia đại sự. Hiện tại các đối tượng đó cùng với các sự kiện quốc gia đại sự không chỉ là mối quan tâm của các tiểu thuyết gia lịch sử, mà còn là đối tượng quan tâm của toàn xã hội Việt Nam đương đại. Trong những tác phẩm này, chính trị luôn là chủ đề trọng tâm hấp dẫn các nhà văn. Có thể thấy những tư duy và diễn ngôn chính trị xuất hiện dồn dập trong các cuốn tiểu thuyết lịch sử đương đại.
Như vậy, tiểu thuyết lịch sử trước đây không chỉ viết về các nhân vật lịch sử và chuyện quốc gia đại sự mà bỏ quên con người bình thường; cũng như tiểu thuyết lịch sử ngày nay cũng không từ bỏ các vĩ nhân để chỉ viết về dân thường. Trên thực tế, tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng luôn coi chính trị, các vĩ nhân và quốc gia đại sự là đề tài hấp dẫn nhất, kể cả ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Còn chuyện đời thường thì trong bất cứ tác phẩm tiểu thuyết nào và ở bất cứ thời nào cũng có, vì nó chính là một phần da phần thịt của tiểu thuyết. Do đó, “xu hướng mới trong tiểu thuyết kịch sử” này thực ra chỉ là kết quả của một định kiến lý thuyết thuần tuý.
2. Tiểu thuyết lịch sử với vấn đề hư cấu
Với xu hướng thứ ba nói trên, vấn đề hư cấu lại trở thành một vấn đề cần phải bàn.
Nếu như trong tiểu thuyết thông thường, hư cấu là kỹ thuật đương nhiên của nhà viết tiểu thuyết, thì đối với tiểu thuyết lịch sử, nghệ thuật hư cấu chính là lĩnh vực chủ yếu để nhà văn thể hiện sự sáng tạo của mình, làm cho tác phẩm đúng là một cuốn tiểu thuyết, và làm cho tiểu thuyết lịch sử khác với một công trình sử ký. Các sự kiện hư cấu cũng còn là sự thể hiện quan điểm của tác giả đối với lịch sử.
Tuy nhiên, hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử có một nét đặc thù riêng, không giống với hư cấu của tiểu thuyết nói chung. Tiểu thuyết lịch sử phải căn cứ vào sự kiện và nhân vật lịch sử có thật, cho nên dù có hư cấu thì cũng chỉ có thể tạo ra các sự kiện giống như “chất phụ gia” cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch sử. Có thể nói, theo tôi, giới hạn của hư cấu trong truyện lịch sử chính là các sự việc và thời gian. Sự việc phải có thật, thời gian phải chính xác. Còn sự việc đó xảy ra như thế nào thì nhà văn có thể hư cấu, nhưng việc hư cấu không được phép làm thay đổi bản chất của sự việc – sự kiện. Đó là nguyên tắc hư cấu của tiểu thuyết lịch sử nói riêng và của truyện lịch sử nói chung.
Ví dụ gần đây có truyện ngắn Bắt đầu và kết thúc của Trần Quỳnh Nga đăng trên báo Văn nghệ số 50-2017. Đây là truyện ngắn đã gây tranh luận nhiều trên mạng xã hội. Mấu chốt của tranh luận về truyện ngắn này là chi tiết hư cấu về Trần Ích Tắc. Đây là chi tiết đã gây phản ứng mạnh trong công chúng bạn đọc. Sử sách ghi Trần Ích Tắc là người văn võ toàn tài nên có tham vọng kế vị ngôi vua, vì không được đáp ứng nên đã đầu hàng quân Nguyên để mong được nhà Nguyên phong làm vua Đại Việt. Sau khi quân Nguyên thất bại, Trần Ích Tắc phải ở lại Trung Quốc. Thế nhưng trong truyện, tác giả lại gắn vào miệng Thoát Hoan câu nhận định: “Chiêu Văn vương Trần Ích Tắc, một kẻ ngông cuồng, một kẻ vì nước mà hy sinh cả tiền tài, danh vọng và thân phận của mình để làm một kẻ nội gián đáng chết.”
Sự việc Trần Ích Tắc đầu hàng là có thật. Trước khi đầu hàng, Trần Ích Tắc đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống phía Nam. Như vậy, nếu có hư cấu thì chỉ hư cấu các tình tiết đầu hàng của Trần Ích Tắc chứ không thể nói Trần Ích Tắc đầu hàng để làm nội gián, cho dù có đặt ý đó vào miệng Thoát Hoan, vì sự thực là Trần Ích Tắc vẫn được nhà Nguyên trọng dụng, được phong nhiều chức tước và sống ở Trung Quốc đến năm 76 tuổi mới mất, đó là tuổi thọ rất cao thời bấy giờ. Cách đối xử này không phải là sự trả thù tội nội gián như lời Thoát Hoan nói trong truyện. Ở đây, tác giả đã nhầm lẫn tình tiết với bản chất. “Nội gián” không phải là tình tiết của sự đầu hàng mà là bản chất ngược lại của sự việc đầu hàng. Sự nhầm lẫn này đã vi phạm nguyên tắc hư cấu của truyện lịch sử.
Điều cuối cùng cần lưu ý: hư cấu còn xuất phát từ quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Do đó cũng không nên tuyệt đối hoá nó khi đánh giá thành công nghệ thuật của nhà văn. Có nhà văn chủ trương trung thành với lịch sử (Hoàng Quốc Hải), có nhà văn đề cao sự sáng tạo hư cấu (Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân). Vì thế thành công nghệ thuật cần phải được đánh giá một cách toàn diện từ nhiều góc độ chứ không phải chỉ căn cứ vào nghệ thuật hư cấu.
N.V.D
[1] P.V., “Toạ đàm về bộ tiểu thuyết triều Trần của nhà văn Hoàng Quốc Hải”, Văn nghệ, số 43, 25-10-2003, tr. 6.